image banner
Tìm cách “mở đường” để xuất khẩu cá ngừ có cơ hội bứt phá
Lượt xem: 118
Theo thông tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), tháng 6/2025, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam giảm sâu sau một thời gian tăng trưởng chậm lại. Trong bối cảnh thị trường toàn cầu đang bước vào cuộc đua mới, gỡ khó chính là mở đường - để ngành cá ngừ có cơ hội bứt phá.
Anh-tin-bai

Những biến động thị trường

Trước những lo ngại về việc Hoa Kỳ áp mức thuế đối ứng mới, nhiều DN xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam đã chủ động dừng xuất khẩu cá ngừ sang thị trường này để tránh rủi ro bị đánh thuế cao. Do đó, xuất khẩu cá ngừ sang Hoa Kỳ chỉ đạt 18 triệu USD trong tháng 6/2025, giảm mạnh 41% so với cùng kỳ 2024. Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất của cá ngừ Việt Nam với kim ngạch đạt 184 triệu USD trong 6 tháng, chiếm gần 39% tổng giá trị xuất khẩu.

Cùng với Hoa Kỳ, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang khối thị trường EU cũng tiếp tục sụt giảm sâu hơn trong tháng 6. Xuất khẩu  sang khối thị trường này giảm 17%, chỉ đạt gần 16 triệu USD. Tính luỹ kế 6 tháng đầu năm, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang EU chỉ tăng nhẹ gần 1% so với cùng kỳ, đạt 109 triệu USD. Xuất khẩu sang một số thị trường chủ lực tại khu vực này giảm sâu trong tháng 6 như Hà Lan giảm 30%, Italy giảm 32%. Trái lại XK cá ngừ sang Đức lại tăng cao 36% trong tháng 6, sau khi giảm liên tục trong 3 tháng qua. Tình hình kinh tế yếu kém tại khu vực Nam Âu và chi phí logistic tăng cao được cho là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu thụ thủy sản.

Ngược lại, thị trường CPTPP ghi nhận mức tăng trưởng tích cực với 62 triệu USD (tăng 11%). Trong khi đó, XK sang Nhật Bản và Canada lại tăng mạnh lần lượt là 24% và 15%. Đây là điểm sáng đáng chú ý trong bối cảnh các thị trường lớn sụt giảm.

Thị trường ngách biến động mạnh

Xuất khẩu sang một một số thị trường ngách nhỏ hơn như Israel, Nga, Chile trong tháng 6 này cũng đang sụt giảm mạnh. Xung đột tại khu vực Trung Đông leo thang đang tác động mạnh tới xuất khẩu cá ngừ sang khối thị trường này. Xuất khẩu cá ngừ sang Israel vì thế mà sụt giảm liên tục trong 6 tháng đầu năm nay.

Trong khi đó, Thái Lan tăng trưởng đột biến tới 137% (20 triệu USD), thể hiện vai trò ngày càng tăng của quốc gia này như một trung tâm chế biến và tái xuất.

Trong số các sản phẩm cá ngừ xuất khẩu, nhóm sản phẩm thịt/loin cá ngừ đông lạnh mã HS0304 ghi nhận tăng trưởng tốt 10%, cho thấy nhu cầu ổn định từ các nhà máy chế biến thực phẩm và siêu thị quốc tế.

Ngược lại, nhóm cá ngừ chế biến mã HS16 giảm 5%, chủ yếu do xuất khẩu cá ngừ đóng hộp giảm mạnh 14%. Điều này cho thấy rõ tác động từ việc thiếu nguồn cung cá ngừ nguyên liệu trong nước đang kìm hãm khả năng đáp ứng các đơn hàng của các DN, đặc biệt là các đơn hàng XK sang EU.

Những thách thức

Theo VASEP, hiện tại, việc sửa đổi Nghị định 37/2024/NĐ-CP diễn ra chậm dù Chính phủ đã chỉ đạo sửa đổi theo trình tự rút gọn, nhưng đến nay dự thảo vẫn chưa được ban hành khiến doanh nghiệp mất cơ hội tận dụng mùa khai thác cá ngừ và tiếp tục chịu rủi ro pháp lý – thủ tục.

Trong nghị định sửa đổi đề xuất phương án thay thế bằng quản lý hạn ngạch (quota) đang gây nhiều lo ngại về phát sinh thêm thủ tục hành chính, làm tăng gánh nặng tuân thủ.

Những bất cập trong thực hiện truy xuất nguồn gốc do quy định về kích cỡ khai thác tối thiểu, quy định cấm trộn lẫn nguyên liệu khai thác trong nước với nguyên liệu nhập khẩu, quy định hóa đơn, chứng từ, hồ sơ tàu cá... dẫn đến hệ quả là doanh nghiệp phải nhập khẩu cá ngừ nguyên liệu, làm giảm tỷ lệ sử dụng nguyên liệu Việt Nam – yếu tố then chốt để tận dụng ưu đãi thuế từ EVFTA.

Bên cạnh đó, về hạn ngạch miễn thuế cá ngừ chế biến và đóng hộp sang EU theo thoả thuận trong Hiệp định EVFTA (11.500 tấn/năm), hạn mức này thường bị sử dụng hết trong vòng 4–5 tháng đầu năm.

Sau khi hết hạn ngạch, doanh nghiệp phải chịu thuế MFN cao, làm giảm sức cạnh tranh và nguy cơ mất bạn hàng EU.

Những năm đầu sau khi hiệp định EVFTA có hiệu lực, tỷ lệ cá ngừ có xuất xứ Việt Nam được hưởng thuế quan theo hạn ngạch còn cao, chiếm 80-100%. Nhưng tỷ lệ này 2 năm qua giảm rất mạnh, thậm chí chỉ còn 30%.

Nguyên nhân, các lô hàng không đủ giấy tờ chứng minh nguồn gốc, lượng sản phẩm đủ điều kiện đáp ứng các quy định về xuất xứ thuần tuý theo thoả thuận trong hiệp định EVFTA rất hạn chế.

Nếu những bất cập do việc áp dụng các quy định trong nghị định 37/2024/NĐ-CP không được tháo gỡ, tỷ lệ cá ngừ có xuất xứ Việt Nam thấp như vậy không chỉ làm mất nguồn thu nhập của bà con ngư dân, của doanh nghiệp Việt mà còn ảnh hưởng đến việc đàm phán lại hạn ngạch với EU sau năm 2027.

Trước tình hình này, VASEP dự báo xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam trong nửa cuối năm sẽ gặp rất nhiều thách thức và khó có thể cán đích như năm 2024.

Giải pháp gỡ khó để ngành cá ngừ bứt phá

Ông Vũ Đình Đáp, Chủ tịch Hiệp hội Cá ngừ Việt Nam cho hay: “Ngành cá ngừ đã và đang là một phần quan trọng đối với kinh tế biển và sinh kế của cộng đồng ngư dân Việt Nam, đặc biệt là tại các tỉnh ven biển miền Trung - nơi có đội tàu khai thác cá ngừ lớn nhất”.

Theo VASEP, những năm gần đây, cá ngừ luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu hải sản và nhóm mặt hàng có giá trị lớn thứ 3 trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.

Tại cuộc họp “Đánh giá tác động của Nghị định 37/2024/NĐ-CP - Đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và ngư dân” do Hiệp hội Cá ngừ Việt Nam chủ trì gần đây, nhiều doanh nghiệp đã thẳng thắn phản ánh những vướng mắc và khó khăn phát sinh từ việc thực thi Nghị định này.

Đại diện Công ty KTC (Khánh Hòa) cho biết, quy định về kích cỡ khai thác tối thiểu trong Nghị định 37 đang gây ra thiệt hại nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn xã hội. Nhiều doanh nghiệp phải nhập khẩu cá ngừ đã đạt chứng nhận MSC (Chứng nhận do Hội đồng Quản lý Biển cấp công nhận các hoạt động khai thác, nuôi trồng thủy sản bền vững và đảm bảo truy xuất nguồn gốc sản phẩm) từ nước ngoài với giá cao, 1,7 - 1,9 USD/kg để duy trì sản xuất và tránh vi phạm hợp đồng, trong khi cá ngừ trong nước dồi dào và có chi phí thấp hơn nhiều nhưng lại không thể tiêu thụ do vướng quy định.

Thứ hai, thị trường EU đặc biệt quan trọng khi EVFTA cho phép thuế suất 0% cho sản phẩm cá ngừ đóng hộp, với hạn ngạch 11.500 tấn. Tuy nhiên, nếu quy định trong nước không kịp thời tháo gỡ, doanh nghiệp Việt Nam buộc phải nhập cá nguyên liệu từ nước ngoài để tận dụng ưu đãi thuế, thay vì dùng chính nguồn cá trong nước. Điều này làm giảm giá trị gia tăng nội địa, đồng thời gia tăng rủi ro vi phạm đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) về kích thước khai thác.

Thứ ba, trong khi Việt Nam còn chậm trễ, Thái Lan và Indonesia đã chủ động nộp đơn xin FTA để chiếm ưu thế tiếp cận thị trường EU. Nếu không kịp thời điều chỉnh, ngành cá ngừ Việt Nam sẽ đánh mất lợi thế cạnh tranh ngay trên thị trường lớn.

Đại diện Công ty Việt Cường (Khánh Hòa) chia sẻ, trong bối cảnh hiện nay, doanh nghiệp phải nhập khẩu cá ngừ nguyên liệu từ nước ngoài để duy trì thị trường và đảm bảo nguồn nguyên liệu, tuy nhiên lợi nhuận thu về không cao. Nếu được phép thu mua và chế biến cá ngừ khai thác trong nước, chi phí nguyên liệu sẽ thấp hơn đáng kể, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế.

 “Ngoài ra, do những khó khăn thực tế và quy định còn chưa rõ ràng về khả năng sửa đổi, nhiều doanh nghiệp hiện không dám ký hợp đồng dài hạn cả năm, khiến hoạt động sản xuất và xuất khẩu thiếu ổn định”, đại diện Công ty Việt Cường nói thêm.

Trong bối cảnh đó, việc chỉ ra vấn đề là chưa đủ. Điều mà cộng đồng doanh nghiệp và ngư dân chờ đợi chính là các giải pháp cụ thể, khả thi và kịp thời từ phía cơ quan quản lý nhà nước.

Phó Tổng Thư ký VASEP Lê Hằng kiến nghị, trước những khó khăn hiện tại, doanh nghiệp đề xuất 4 giải pháp. Một là, Chính phủ sớm ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định số 37 nhằm tháo gỡ vướng mắc kịp thời trước mùa khai thác cá ngừ.

Hai là, đơn giản hóa thủ tục truy xuất nguồn gốc, xác nhận và chứng nhận thủy sản có nguồn gốc khai thác.

Ba là, số hóa quy trình đăng ký - xác nhận giữa doanh nghiệp và Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), tránh phụ thuộc thủ công.

Bốn là, nâng tỷ lệ cá ngừ có xuất xứ Việt Nam được hưởng hạn ngạch thuế quan sang EU bằng cách cải thiện quy trình cấp giấy chứng nhận nguồn gốc trong nước.

Trong bối cảnh thị trường toàn cầu đang bước vào cuộc đua mới, nơi minh bạch chuỗi cung ứng và phát triển bền vững trở thành tiêu chuẩn cạnh tranh, nếu không kịp thời tháo gỡ các vướng mắc về thể chế, đặc biệt là sửa đổi Nghị định 37 một cách thực chất, linh hoạt và khoa học, thì ngành cá ngừ Việt Nam sẽ lỡ nhịp chuyển mình và đánh mất lợi thế vào tay các đối thủ trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Ecuador.

Chỉ khi rào cản được tháo gỡ, cơ chế vận hành được cải thiện và doanh nghiệp - ngư dân được tiếp thêm động lực, cá ngừ Việt Nam mới có thể vươn mình mạnh mẽ hơn, giữ vững thị phần xuất khẩu và khẳng định vị thế trên bản đồ thủy sản thế giới. Gỡ khó chính là mở đường - để ngành cá ngừ có cơ hội bứt phá.

Thị trường Halal là một cơ hội lớn

Thị trường Halal toàn cầu, với hơn 2 tỷ người tiêu dùng theo đạo Hồi, đang mở ra cơ hội lớn cho ngành thủy sản Việt Nam, đặc biệt là mặt hàng cá ngừ. Tuy nhiên, để tận dụng hiệu quả tiềm năng này, doanh nghiệp Việt cần vượt qua nhiều thách thức về tiêu chuẩn và năng lực sản xuất.

Thị trường Halal là một cơ hội lớn cho ngành cá ngừ Việt Nam, nhưng để tận dụng được cơ hội này, doanh nghiệp cần chủ động nâng cao năng lực, tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn Halal và tận dụng các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng và chiến lược phù hợp, cá ngừ Việt Nam hoàn toàn có thể chiếm lĩnh thị trường Halal đầy tiềm năng.

Để khai thác hiệu quả thị trường Halal, các doanh nghiệp Việt Nam cần đầu tư vào hệ thống sản xuất đạt chuẩn Halal: Đảm bảo toàn bộ quy trình từ nguyên liệu đến chế biến, đóng gói đều tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn Halal.

Tìm hiểu kỹ lưỡng yêu cầu của từng thị trường: Mỗi quốc gia Hồi giáo có thể có những quy định riêng về Halal, do đó, việc nắm rõ thông tin sẽ giúp doanh nghiệp chuẩn bị tốt hơn.

Hợp tác với các tổ chức chứng nhận uy tín: Việc hợp tác với các tổ chức chứng nhận Halal được công nhận quốc tế sẽ giúp sản phẩm dễ dàng được chấp nhận tại các thị trường Hồi giáo.

Tham gia các chương trình hỗ trợ của Chính phủ: Việt Nam đã ban hành Đề án "Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030", cùng với việc thành lập Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiếp cận và phát triển thị trường Halal.

Theo VASEP, các quốc gia như Israel, Ả Rập Xê Út, UAE và Qatar là những thị trường tiêu thụ cá ngừ lớn, với nhu cầu cao về sản phẩm đạt tiêu chuẩn Halal. Đặc biệt, Israel hiện là quốc gia nhập khẩu thủy sản lớn nhất trong khu vực Trung Đông, chủ yếu là cá ngừ đóng hộp.

Số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam cho thấy, trong tháng 6/2025, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam đạt hơn 67 triệu USD, giảm 21% so với cùng kỳ năm 2024. Tuy nhiên, lũy kế 6 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu cá ngừ đạt 473 triệu USD, gần tương đương cùng kỳ năm ngoái./.

 

Nguồn bài viết: kinhtenongthon.vn
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1